I. Định nghĩa Mạng Máy Tính
Mạng máy tính là một nhóm các máy tính, thiết bị ngoại vi được kết nối với nhau
thông qua các phương tiện truyền dẫn như cáp, sóng điện từ, tia hồng ngoại…giúp
cho các thiết bị này có thể trao đổi dữ liệu với nhau một cách dễ dàng.
VII. Các mô hình quản lý mạng
II. Lịch sử Mạng máy tính
Vào giữa những năm 50 một số nhà chế tạo máy tính đã nghiên cứu thành công
những thiết bị truy cập từ xa tới máy tính của họ. Một trong những phương pháp
thâm nhập từ xa được thực hiện bằng việc cài đặt một thiết bị đầu cuối ở một vị trí
cách xa trung tâm tính toán, thiết bị đầu cuối này được liên kết với trung tâm bằng
việc sử dụng đường dây điện thoại và với hai thiết bị xử lý tín hiệu (thường gọi là
Modem) gắn ở hai đầu và tín hiệu được truyền thay vì trực tiếp thì thông qua dây
điện thoại.
Trong lúc đưa ra giới thiệu những thiết bị đầu cuối từ xa, các nhà khoa học đã triển
khai một loạt những thiết bị điều khiển, những thiết bị đầu cuối đặc biệt cho phép
người sử dụng nâng cao được khả năng tương tác với máy tính. Một trong những
sản phẩm quan trọng đó là hệ thống thiết bị đầu cuối 3270 của IBM. Hệ thống đó
bao gồm các màn hình, các hệ thống điều khiển, các thiết bị truyền thông được liên
kết với các trung tâm tính toán. Hệ thống 3270 được giới thiệu vào năm 1971 và
được sử dụng dùng để mở rộng khả năng tính toán của trung tâm máy tính tới các
vùng xa. Ðể làm giảm nhiệm vụ truyền thông của máy tính trung tâm và số lượng
các liên kết giữa máy tính trung tâm với các thiết bị đầu cuối, IBM và các công ty
máy tính khác đã sản xuất một số các thiết bị sau:
Thiết bị kiểm soát truyền thông: Có nhiệm vụ nhận các bit tín hiệu từ các kênh
truyền thông, gom chúng lại thành các byte dữ liệu và chuyển nhóm các byte đó tới
máy tính trung tâm để xử lý, thiết bị này cũng thực hiện công việc ngược lại để
chuyển tín hiệu trả lời của máy tính trung tâm tới các trạm ở xa. Thiết bị trên cho
phép giảm bớt được thời gian xử lý trên máy tính trung tâm và xây dựng các thiết bị
logic đặc trưng.
Thiết bị kiểm soát nhiều đầu cuối: Cho phép cùng một lúc kiểm soát nhiều thiết bị
đầu cuối. Máy tính trung tâm chỉ cần liên kết với một thiết bị như vậy là có thể phục
vụ cho tất cả các thiết bị đầu cuối đang được gắn với thiết bị kiểm soát trên. Ðiều
này đặc biệt có ý nghĩa khi thiết bị kiểm soát nằm ở cách xa máy tính vì chỉ cần sử
dụng một đường điện thoại là có thể phục vụ cho nhiều thiết bị đầu cuối.
Hình 1.1: Mô hình trao đổi mạng của hệ thống 3270
Vào giữa những năm 1970, các thiết bị đầu cuối sử dụng những phương pháp liên
kết qua đường cáp nằm trong một khu vực đã được ra đời. Với những ưu điểm từ
nâng cao tốc độ truyền dữ liệu và qua đó kết hợp được khả năng tính toán của các
máy tính lại với nhau. Ðể thực hiện việc nâng cao khả năng tính toán với nhiều máy
tính các nhà sản xuất bắt đầu xây dựng các mạng phức tạp. Vào những năm 1980
các hệ thống đường truyền tốc độ cao đã được thiết lập ở Bắc Mỹ và Châu Âu và từ
đó cũng xuất hiện các nhà cung cấp các dịnh vụ truyền thông với những đường
truyền có tốc độ cao hơn nhiều lần so với đường dây điện thoại. Với những chi phí
thuê bao chấp nhận được, người ta có thể sử dụng được các đường truyền này để
liên kết máy tính lại với nhau và bắt đầu hình thành các mạng một cách rộng khắp.
Ở đây các nhà cung cấp dịch vụ đã xây dựng những đường truyền dữ liệu liên kết
giữa các thành phố và khu vực với nhau và sau đó cung cấp các dịch vụ truyền dữ
liệu cho những người xây dựng mạng. Người xây dựng mạng lúc này sẽ không cần
xây dựng lại đường truyền của mình mà chỉ cần sử dụng một phần các năng lực
truyền thông của các nhà cung cấp.
Vào năm 1974 công ty IBM đã giới thiệu một loạt các thiết bị đầu cuối được chế tạo
cho lĩnh vực ngân hàng và thương mại, thông qua các dây cáp mạng các thiết bị đầu
cuối có thể truy cập cùng một lúc vào một máy tính dùng chung. Với việc liên kết
các máy tính nằm ở trong một khu vực nhỏ như một tòa nhà hay là một khu nhà thì
tiền chi phí cho các thiết bị và phần mềm là thấp. Từ đó việc nghiên cứu khả năng
sử dụng chung môi trường truyền thông và các tài nguyên của các máy tính nhanh
chóng được đầu tư.
Vào năm 1977, công ty DataPoint Corporation đã bắt đầu bán hệ điều hành mạng
của mình là "Attached Resource Computer Network" (hay gọi tắt là Arcnet) ra thị
trường. Mạng Arcnet cho phép liên kết các máy tính và các trạm đầu cuối lại bằng
dây cáp mạng, qua đó đã trở thành là hệ điều hành mạng cục bộ đầu tiên.
Từ đó đến nay đã có rất nhiều công ty đưa ra các sản phẩm của mình, đặc biệt khi
các máy tính cá nhân được sử dụng một cánh rộng rãi. Khi số lượng máy vi tính
trong một văn phòng hay cơ quan được tăng lên nhanh chóng thì việc kết nối chúng
trở nên vô cùng cần thiết và sẽ mang lại nhiều hiệu quả cho người sử dụng.
III. Tại sao cần có mạng?
Ngày nay với một lượng lớn về thông tin, nhu cầu xử lý thông tin ngày càng cao.
Mạng máy tính hiện nay trở nên quá quen thuộc đối với chúng ta, trong mọi lĩnh
vực như khoa học, quân sự, quốc phòng, thương mại, dịch vụ, giáo dục... Hiện nay
ở nhiều nơi mạng đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được. Người ta thấy
được việc kết nối các máy tính thành mạng cho chúng ta những khả năng mới to lớn
như:
Sử dụng chung tài nguyên: Những tài nguyên của mạng (như thiết bị, chương
trình, dữ liệu) khi được trở thành các tài nguyên chung thì mọi thành viên của mạng
đều có thể tiếp cận được mà không quan tâm tới những tài nguyên đó ở đâu.
Tăng độ tin cậy của hệ thống: Người ta có thể dễ dàng bảo trì máy móc và lưu trữ
(backup) các dữ liệu chung và khi có trục trặc trong hệ thống thì chúng có thể được
khôi phục nhanh chóng. Trong trường hợp có trục trặc trên một trạm làm việc thì
người ta cũng có thể sử dụng những trạm khác thay thế.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả khai thác thông tin: Khi thông tin có thể được
dùng chung thì nó mang lại cho người sử dụng khả năng tổ chức lại các công việc
với những thay đổi về chất như:
▪ Ðáp ứng những nhu cầu của hệ thống ứng dụng kinh doanh hiện đại.
▪ Cung cấp sự thống nhất giữa các dữ liệu.
▪ Tăng cường năng lực xử lý nhờ kết hợp các bộ phận phân tán.
▪ Tăng cường truy nhập tới các dịch vụ mạng khác nhau đang được cung
cấp trên thế giới.
IV. Phân loại mạng máy tính
1. Mạng cục bộ LAN (Local Area Network)
Mạng LAN là một nhóm các máy tính và các thiết bị truyền thông mạng được nối
kết với nhau trong một khu vực nhỏ như một toà nhà cao ốc, khuôn viên trường đại
học, khu giải trí…
Các mạng LAN thường có các đặc điểm sau đây:
▪ Băng thông lớn có khả năng chạy các ứng dụng trực tuyến như xem phim,
hội thảo qua mạng.
▪ Kích thước mạng bị giới hạn bởi các thiết bị.
▪ Chi phí các thiết bị mạng LAN tương đối rẻ.
▪ Quản trị đơn giản.
Hình 1.2
2. Mạng đô thị MAN (Metropolitan Area Network)
Mạng MAN gần giống như mạng LAN nhưng giới hạn của nó là một thành phố hay
một quốc gia. Mạng MAN nối kết các mạng LAN lại với nhau thông qua các
phương tiện truyền dẫn khác nhau (cáp quang, cáp đồng, sóng…) và các phương
thức truyền thông khác nhau.
Đặc điểm của mạng MAN:
▪ Băng thông mức trung bình, đủ để phục vụ các ứng dụng cấp thành phố
hay quốc gia như chính phủ điện tử, thương mại điện tử, các ứng dụng
của các ngân hàng…
▪ Do MAN nối kết nhiều LAN với nhau nên độ phức tạp cũng tăng đồng
thời việc quản lý sẽ khó khăn hơn.
▪ Chi phí các thiết bị mạng MAN tương đối đắt tiền.
3. Mạng diện rộng WAN (Wide Area Network)
Mạng WAN bao phủ vùng địa lý rộng lớn có thể là một quốc gia, một lục địa hay
toàn cầu. Mạng WAN thường là mạng của các công ty đa quốc gia hay toàn cầu
điển hình là mạng Internet. Do phạm vi rộng lớn của mạng WAN nên thông thường
mạng WAN là tập hợp các mạng LAN, MAN nối lại với nhau bằng các phương tiện
như: vệ tinh (satellites), sóng viba (microwave), cáp quang, cáp điện thoại.
Đặc điểm của mạng WAN:
▪ Băng thông thấp, dễ mất kết nối thường chỉ phù hợp với các ứng dụng
online như e-mail, web, ftp…
▪ Phạm vi hoạt động rộng lớn không giới hạn.
▪ Do kết nối của nhiều LAN, MAN lại với nhau nên mạng rất phức tạp và
có tính toàn cầu nên thường là các tổ chức quốc tế đứng ra qui định và
quản lý.
▪ Chi phí cho các thiết bị và các công nghệ mạng WAN rất đắt tiền.
Hình 1.3
4. Mạng Internet:
Mạng Internet là trường hợp đặc biệt của mạng WAN, nó chứa các dịch vụ toàn cầu
như Mail, Web, Chat, FTP và phục vụ miễn phí cho mọi người.
V. Sự phân biệt giữa mạng cục bộ và mạng diện rộng
Mạng cục bộ và mạng diện rộng có thể được phân biệt bởi: địa phương hoạt động,
tốc độ đường truyền và tỷ lệ lỗi trên đường truyền, chủ quản của mạng, đường đi
của thông tin trên mạng, dạng chuyển giao thông tin.
Địa phương hoạt động: Liên quan đến khu vực địa lý thì mạng cục bộ sẽ là mạng
liên kết các máy tính nằm ở trong một khu vực nhỏ. Khu vực có thể bao gồm một
tòa nhà hay là một khu nhà... Điều đó hạn chế bởi khoảng cách đường dây cáp được
dùng để liên kết các máy tính của mạng cục bộ (hạn chế đó còn là hạn chế của khả
năng kỹ thuật của đường truyền dữ liệu). Ngược lại mạng diện rộng là mạng có khả
năng liên kết các máy tính trong một vùng rộng lớn như là một thành phố, một
miền, một đất nước, mạng diện rộng được xây dựng để nối hai hoặc nhiều khu vực
địa lý riêng biệt.
Tốc độ đường truyền và tỷ lệ lỗi trên đường truyền: Do các đường cáp của mạng
cục bộ được xây dựng trong một khu vực nhỏ cho nên nó ít bị ảnh hưởng bởi tác
động của thiên nhiên (như là sấm chớp, ánh sáng...). Điều đó cho phép mạng cục bộ
có thể truyền dữ liệu với tốc độ cao mà chỉ chịu một tỷ lệ lỗi nhỏ. Ngược lại với
mạng diện rộng do phải truyền ở những khoảng cách khá xa với những đường
truyền dẫn dài có khi lên tới hàng ngàn km. Do vậy mạng diện rộng không thể
truyền với tốc độ quá cao vì khi đó tỷ lệ lỗi sẽ trở nên khó chấp nhận được.
Mạng cục bộ thường có tốc độ truyền dữ liệu từ 4 đến 16 Mbps và đạt tới 100 Mbps
nếu dùng cáp quang. Còn phần lớn các mạng diện rộng cung cấp đường truyền có
tốc độ thấp hơn nhiều như T1 với 1.544 Mbps hay E1 với 2.048 Mbps.
(Ở đây bps (Bit Per Second) là một đơn vị trong truyền thông tương đương với 1 bit
được truyền trong một giây, ví dụ như tốc độ đường truyền là 1 Mbps tức là có thể
truyền tối đa 1 Megabit trong 1 giây trên đường truyền đó).
Thông thường trong mạng cục bộ tỷ lệ lỗi trong truyền dữ liệu vào khoảng 1/107-
108 còn trong mạng diện rộng thì tỷ lệ đó vào khoảng 1/106 - 107
Chủ quản và điều hành của mạng: Do sự phức tạp trong việc xây dựng, quản lý,
duy trì các đường truyền dẫn nên khi xây dựng mạng diện rộng người ta thường sử
dụng các đường truyền được thuê từ các công ty viễn thông hay các nhà cung cấp
dịch vụ truyền số liệu. Tùy theo cấu trúc của mạng những đường truyền đó thuộc
cơ quan quản lý khác nhau như các nhà cung cấp đường truyền nội hạt, liên tỉnh,
liên quốc gia. Các đường truyền đó phải tuân thủ các quy định của chính phủ các
khu vực có đường dây đi qua như: tốc độ, việc mã hóa.
Còn đối với mạng cục bộ thì công việc đơn giản hơn nhiều, khi một cơ quan cài đặt
mạng cục bộ thì toàn bộ mạng sẽ thuộc quyền quản lý của cơ quan đó.
Đường đi của thông tin trên mạng: Trong mạng cục bộ thông tin được đi theo con
đường xác định bởi cấu trúc của mạng. Khi người ta xác định cấu trúc của mạng thì
thông tin sẽ luôn luôn đi theo cấu trúc đã xác định đó. Còn với mạng diện rộng dữ
liệu cấu trúc có thể phức tạp hơn nhiều do việc sử dụng các dịch vụ truyền dữ liệu.
Trong quá trình hoạt động các điểm nút có thể thay đổi đường đi của các thông tin
khi phát hiện ra có trục trặc trên đường truyền hay khi phát hiện có quá nhiều
thông tin cần truyền giữa hai điểm nút nào đó. Trên mạng diện rộng thông tin có
thể có các con đường đi khác nhau, điều đó cho phép có thể sử dụng tối đa các năng
lực của đường truyền hay nâng cao điều kiện an toàn trong truyền dữ liệu.
Dạng chuyển giao thông tin: Phần lớn các mạng diện rộng hiện nay được phát triển
cho việc truyền đồng thời trên đường truyền nhiều dạng thông tin khác nhau như:
video, tiếng nói, dữ liệu... Trong khi đó các mạng cục bộ chủ yếu phát triển trong
việc truyền dữ liệu thông thường. Điều này có thể giải thích do việc truyền các dạng
thông tin như video, tiếng nói trong một khu vực nhỏ ít được quan tâm hơn như khi
truyền qua những khoảng cách lớn.
Các hệ thống mạng hiện nay ngày càng phức tạp về chất lượng, đa dạng về chủng
loại và phát triển rất nhanh về chất. Trong sự phát triển đó số lượng những nhà sản
xuất từ phần mềm, phần cứng máy tính, các sản phẩm viễn thông cũng tăng nhanh
với nhiều sản phẩm đa dạng. Chính vì vậy vai trò chuẩn hóa cũng mang những ý
nghĩa quan trọng. Tại các nước các cơ quan chuẩn quốc gia đã đưa ra các những
chuẩn về phần cứng và các quy định về giao tiếp nhằm giúp cho các nhà sản xuất có
thể làm ra các sản phẩm có thể kết nối với các sản phẩm do hãng khác sản xuất.
VI. Các mô hình xử lý mạng
Cơ bản có 3 loại mô hình xử lý mạng bao gồm:
▪ Mô hình xử lý mạng tập trung.
▪ Mô hình xử lý mạng phân phối.
▪ Mô hình xử lý mạng cộng tác.
1. Mô hình xử lý mạng tập trung:
Toàn bộ các tiến trình xử lý diễn ra tại máy tính trung tâm. Các máy trạm cuối
(Terminals) được nối mạng với máy tính trung tâm và chỉ hoạt động như những
thiết bị nhập xuất dữ liệu cho phép người dùng xem trên màn hình và nhập liệu bàn
phím. Các máy trạm đầu cuối không lưu trữ và xử lý dữ liệu .
Mô hình xử lý mạng
trên có thể triển khai trên hệ thống phần cứng hoặc phần mềm được cài đặt trên
Server.
Ưu điểm: dữ liệu được bảo mật an toàn, dễ backup và diệt virus.
Chi phí các thiết
bị thấp.
Khuyết điểm: khó đáp ứng được các yêu cầu của nhiều ứng dụng khác nhau, tốc độ
truy xuất chậm.
Hình 1.4
2. Mô hình xử lý mạng phân phối:
Các máy tính có khả năng hoạt động độc lập, các công việc được tách nhỏ và giao
cho nhiều máy tính khác nhau thay vì tập trung xử lý trên máy trung tâm. Tuy dữ
liệu được xử lý và lưu trữ tại máy cục bộ nhưng các máy tính này được nối mạng
với nhau nên chúng có thể trao đổi dữ liệu và dịch vụ.
Ưu điểm: truy xuất nhanh, phần lớn không giới hạn các ứng dụng.
Khuyết điểm: dữ liệu lưu trữ rời rạc khó đồng bộ, backup và rất dễ nhiễm virus.
Hình 1.5
3. Mô hình xử lý mạng cộng tác:
Mô hình xử lý mạng cộng tác bao gồm nhiều máy tính có thể hợp tác để thực hiện
một công việc. Một máy tính có thể mượn năng lực xử lý bằng cách chạy các chương
trình trên các máy nằm trong mạng.
Ưu điểm: rất nhanh và mạnh, có thể dùng để chạy các ứng dụng có các phép toán
lớn
Khuyết điểm: các dữ liệu được lưu trữ trên các vị trí khác nhau nên rất khó đồng
bộ và backup, khả năng nhiễm virus rất cao.
1. Workgroup
Trong mô hình này các máy tính có quyền hạng ngang nhau và không có các máy
tính chuyên dụng làm nghiệp vụ cung cấp dịch vụ hay quản lý. Các máy tính tự bảo
mật và quản lý tài nguyên của riêng mình. Đồng thời các máy tính cục bộ này cũng
tự chứng thực cho người dùng cục bộ.
2. Domain
Ngược lại với mô hình Workgroup, mô hình Domain thì việc quản lý và chứng thực
người dùng mạng tập trung tại máy tính Primary Domain Controller. Các tài
nguyên mạng cũng được quản lý tập trung và cấp quyền hạn cho từng người dùng.
Lúc đó trong hệ thống có các máy tính chuyên dụng làm nhiệm vụ cung cấp các
dịch vụ và quản lý các máy trạm.
VIII. Các mô hình ứng dụng mạng
1. Mạng ngang hàng (peer to peer)
Mạng ngang hàng cung cấp việc kết nối cơ bản giữa các máy tính nhưng không có
bất kỳ một máy tính nào đóng vai trò phục vụ. Một máy tính trên mạng có thể vừa
là Client vừa là Server. Trong môi trường này người dùng trên từng máy tính chịu
trách nhiệm điều hành và chia sẻ tài nguyên của máy tính mình. Mô hình này chỉ
phù hợp với tổ chức nhỏ, số người giới hạn (thông thường nhỏ hơn 10 người) và
không quan tâm đến vấn đề bảo mật.
Mạng ngang hàng thường dùng các hệ điều hành sau: Win95, Windows for
Workgroup, WinNT Workstation, Win2000 Proffessional, OS/2…
Ưu điểm: Do mô hình mạng ngang hàng đơn giản nên dễ cài đặt, tổ chức và quản
trị, chi phí thiết bị cho mô hình này thấp.
Khuyết điểm: Không cho phép quản lý tập trung nên dữ liệu phân tán, khả năng
bảo mật thấp rất dễ bị xâm nhập. Các tài nguyên không được sắp xếp nên rất khó
định vị và tìm kiếm.
Hình 1.6
2. Mạng khách chủ (Client – Server)
Trong mô hình mạng khách chủ có một hệ thống máy tính cung cấp các tài nguyên
và dịch vụ cho cả hệ thống mạng sử dụng gọi là các máy chủ (Server). Một hệ thống
máy tính sử dụng các tài nguyên và dịch vụ này được gọi là máy khách (Client). Các
Server thường có cấu hình mạnh (tốc độ xử lý nhanh, kích thước lưu trữ lớn) hoặc là
các máy chuyên dụng.
Hệ điều hành mạng dùng trong mô hình Client - Server là WinNT, Novell Netware,
Unix,Win2K…
Ưu điểm: Do các dữ liệu được lưu trữ tập trung nên dễ bảo mật, backup và đồng bộ
với nhau. Tài nguyên và dịch vụ được tập trung nên dễ chia sẻ và quản lý và có thể
phục vụ cho nhiều người dùng.
Khuyết điểm: Các Server chuyên dụng rất đắt tiền, phải có nhà quản trị cho hệ
thống.
Hình 1.7
IX. Kiến trúc mạng cục bộ
1. Hình trạng mạng (Network Topology)
Topology mạng: Cách kết nối các máy tính với nhau về mặt hình học mà ta gọi là tô
pô của mạng.
Có 2 kiểu nối mạng chủ yếu đó là:
▪ Nối kiểu điểm – điểm (point – to – point)
▪ Nối kiểu điểm – nhiều điểm (point – to – multipoint hay broadcast)
- Point to Point: Các đường truyền nối từng cặp nút với nhau và mỗi nút đều có
trách nhiệm lưu trữ tạm thời sao đó chuyển tiếp dữ liệu đi cho tới đích. Do cách làm
việc như vậy nên mạng kiểu này còn được gọi là mạng “lưu và chuyển tiếp“ (store
and forward).
- Point to multipoint: Tất cả các nút phân chia nhau một đường truyền vật lý chung.
Dữ liệu gửi đi từ một nút nào đó sẽ được tiếp nhận bởi tất cả các nút còn lại trên
mạng, bởi vậy chỉ cần chỉ ra địa chỉ đích của dữ liệu để căn cứ vào đó các nút tra
xem dữ liệu đó có phải gửi cho mình không.
2. Mạng hình sao (Star):
Mạng hình sao có tất cả các trạm được kết nối với một thiết bị trung tâm có nhiệm
vụ nhận tín hiệu từ các trạm và chuyển đến trạm đích. Tuỳ theo yêu cầu truyền
thông trên mạng mà thiết bị trung tâm có thể là Switch, router, hub hay máy chủ
trung tâm. Vai trò của thiết bị trung tâm là thiết lập các liên kết Point to Point.
Ưu điểm: Thiết lập mạng đơn giản, dễ dàng cấu hình lại mạng (thêm, bớt các trạm),
dễ dàng kiểm soát và khắc phục sự cố, tận dụng được tối đa tốc độ truyền của
đường truyền vật lý.
Khuyết điểm: Độ dài đường truyền nối một trạm với thiết bị trung tâm bị hạn chế
(trong vòng 100m, với công nghệ hiện nay).
Hình 1.8
3. Mạng trục tuyến tính (Bus):
Tất cả các trạm phân chia một đường truyền chung (bus). Đường truyền chính được
giới hạn hai đầu bằng hai đầu nối đặc biệt gọi là terminator. Mỗi trạm được nối với
trục chính qua một đầu nối chữ T (T-connector) hoặc một thiết bị thu phát
(transceiver).
Mô hình mạng Bus hoạt động theo các liên kết Point to Multipoint hay Broadcast.
Ưu điểm: Dễ thiết kế, chi phí thấp.
Khuyết điểm: Tính ổn định kém, chỉ một nút mạng hỏng là toàn bộ mạng bị ngừng
hoạt động.
Hình 1.9
4. Mạng hình vòng (Ring):
Trên mạng hình vòng tín hiệu được truyền đi trên vòng theo một chiều duy nhất.
Mỗi trạm của mạng được nối với nhau qua một bộ chuyển tiếp (repeater) có nhiệm
vụ nhận tín hiệu rồi chuyển tiếp đến trạm kế tiếp trên vòng. Như vậy tín hiệu được
lưu chuyển trên vòng theo một chuỗi liên tiếp các liên kết Point to Point giữa các
repeater.
Mạng hình vòng có ưu, nhược điểm tương tự như mạng hình sao, tuy nhiên mạng
hình vòng đòi hỏi giao thức truy nhập mạng phức tạp hơn mạng hình sao.
Ngoài ra còn có các kết nối hỗn hợp giữa các kiến trúc mạng trên như: Star Bus, Star
Ring
Nguồn: internet
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã bình luận!